Vi khuẩn HP là gì? Vi khuẩn HP có nguy hiểm không?
Vi khuẩn HP gây bệnh gì?
HP là một loại vi khuẩn rất thường gặp ở nước ta và nhiều nước khác trên thế giới. Thống kê cho thấy có gần một nửa dân số thế giới mang loại vi khuẩn này. Tại Việt Nam, có khoảng 70% số dân bị nhiễm vi khuẩn HP. Đặc biệt, tuổi càng lớn thì khả năng nhiễm HP càng cao (có đến 80% số người trong độ tuổi từ 40 – 50 nhiễm vi khuẩn HP).
Vậy vi khuẩn HP là gì? Chúng gây ra bệnh gì và có nguy hiểm không?
1. Vi khuẩn HP là gì?
Vi khuẩn HP là tên gọi tắt của vi khuẩn Helicobacter pylori – một loại vi khuẩn được tìm thấy trong dạ dày người, chúng chủ yếu sống ở lớp nhầy trên niêm mạc dạ dày. Để tồn tại được ở dạ dày – nơi có môi trường acid dịch vị khắc nghiệt, vi khuẩn HP tiết ra Urease – một loại enzyme có tác dụng trung hòa axít dạ dày.
Vi khuẩn HP trong môi trường dạ dày
Vi khuẩn HP được tìm ra vào năm 1982 bởi hai nhà khoa học người Australia là Robin Warren và Barry Marshall, chính phát hiện này đã giúp hai nhà bác học này nhận được giải Nobel y học vào năm 2005. Người ta cho rằng, vi khuẩn HP đã có từ rất lâu (60.000 năm trước ở châu Phi, người ta đã thấy loại vi khuẩn này trong dạ dày người)
Vi khuẩn HP có đặc điểm gì?
Vi khuẩn HP là một loại trực khuẩn gram âm hình que, hiếu khí (sống trong môi trường có không khí), có chiều dài khoảng 3 µm và đường kính 0.5 µm. Ở đầu vi khuẩn HP có một túm lông (thực chất là 4 – 6 roi) để giúp chúng di chuyển được.
2. Vi khuẩn HP có nguy hiểm không?
Vi khuẩn HP có thể gây ra một số bệnh như: viêm niêm mạc dạ dày cấp và mạn tính, viêm loét dạ dày – tá tràng, trào ngược dạ dày – thực quản, chứng khó tiêu chức năng và nguy hiểm nhất là ung thư dạ dày. Tuy nhiên không phải trường hợp nào nhiễm vi khuẩn HP cũng dẫn đến các biến chứng trên. Các thống kê cho thấy có khoảng 10 – 20% số người mang vi khuẩn HP dẫn tới loét dạ dày – tá tràng và chỉ có 1 – 2% số trường hợp bị ung thư dạ dày do loại vi khuẩn này. Đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa lý giải được hiện tượng một số người nhiễm vi khuẩn HP dẫn đến ung thư dạ dày, còn một số khác thì không bị bệnh.
Một số trường hợp nhiễm vi khuẩn HP mang gen Cag A có thể dẫn đến ung thư dạ dày
Phần lớn (80%) các trường hợp nhiễm vi khuẩn HP mà không biểu hiện triệu chứng cũng như không gây ra biến chứng trên lâm sàng, nhiều người không cần điều trị.
Một điều đáng mừng là mặc dù nước ta có tỷ lệ nhiễm vi khuẩn HP thuộc top đầu của thế giới (với hơn 70% dân số) nhưng tỷ lệ ung thư dạ dày chỉ xếp thứ 10 thế giới. Ngoài vi khuẩn HP, ung thư dạ dày phụ thuộc vào chế độ ăn uống, môi trường sống … Các nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa bệnh ung thư dạ dày và thói quen ăn mặn ở những người nhiễm vi khuẩn này. Vì vậy các chuyên gia khuyến cáo người dân (đặc biệt là những người bị viêm loét dạ dày do vi khuẩn HP) cần ăn nhạt để hạn chế nguy cơ bị ung thư dạ dày.
Ung thư dạ dày có hai loại:
- Ung thư tâm vị và đoạn cuối thực quản: loại ung thư này được khẳng định là ít liên quan đến vi khuẩn HP.
- Ung thư không phải tâm vị: dạng ung thư này phổ biến, hay gặp hơn so với ung thư tâm vị và có liên quan đến vi khuẩn HP
3. Vi khuẩn HP gây ra bệnh gì?
Vi khuẩn HP có thể gây ra một số bệnh ở đường tiêu hóa như:
• Viêm niêm mạc dạ dày cấp tính
Là giai đoạn đầu khi mới bị nhiễm vi khuẩn HP, đa số bệnh nhân không có triệu chứng, chỉ một số ít người có biểu hiện: đau bụng, đầy bụng, chán ăn, buồn nôn trong giai đoạn cấp tính. Nếu thực hiện nội soi dạ dày có thể thấy viêm một phần hoặc viêm toàn bộ niêm mạc dạ dày.
Viêm niêm mạc dạ dày cấp tính có thể tự khỏi hoặc chuyển sang viêm mạn tính.
• Viêm niêm mạc dạ dày mạn tính
Tình trạng này thường xảy sau khi viêm niêm mạc dạ dày cấp tính (có hoặc không có triệu chứng) diễn ra trong một thời gian dài.
Khi bị viêm niêm mạc dạ dày mạn tính sẽ xảy ra 1 trong 2 trường hợp sau
- Trường hợp 1: viêm dạ dày dẫn đến teo niêm mạc ở hang vị. Lúc này, việc bài tiết axít dạ dày có thể vẫn bình thường hoặc tăng. Biến chứng hay gặp nhất là loét hành tá tràng.
- Trường hợp 2: quá trình viêm teo niêm mạc dạ dày lan rộng tới thân vị, toàn bộ niêm mạc dạ dày có thể bị viêm teo (nếu viêm nặng) dẫn tới hậu quả: giảm tiết axít dạ dày, loét dạ dày và cuối cùng là ung thư dạ dày.
Thực tế, có nhiều nguyên nhân gây viêm niêm mạc dạ dày, không chỉ do vi khuẩn HP mà còn có thể do miễn dịch (viêm niêm mạc dạ dày tự miễn).
Một số bệnh do vi khuẩn HP gây ra
• Viêm loét dạ dày - tá tràng
Tình trạng loét dạ dày thường xảy ra ở những người ngoài 40 tuổi, vị trí hay bị loét nhất là ở bờ cong nhỏ dạ dày đặc biệt là khu vực nối thân vị với hang vị, các ổ loét thường có kích thước trên 0.5 cm.
Loét tá tràng thường gặp ở độ tuổi từ 20 đến 50, vị trí hay bị loét nhất là hành tá tràng (phần đầu tiên của tá tràng ngay dưới dạ dày).
Biến chứng thường gặp nhất của loét dạ dày – tá tràng là chảy máu đường tiêu hóa (có thể tái phát nhiều lần). Ngoài ra, có thể gặp biến chứng hẹp môn vị (thức ăn khó di chuyển từ dạ dày xuống ruột non) khiến người bệnh buồn nôn hoặc nôn, không ăn uống được. Trước kia, biến chứng hẹp môn vị cần phải phẫu thuật, tuy nhiên với những tiến bộ của y học, biến chứng này có thể điều trị được bằng thuốc mà không cần phải mổ. Một biến chứng nghiêm trọng khác của loét dạ dày – tá tràng là thủng dạ dày, trước đây phải cắt dạ dày, tuy nhiên ngày nay có thể điều trị bằng cách phẫu thuật khâu lại lỗ thủng ở dạ dày.
• Ung thư dạ dày
Vào năm 1994, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chính thức công nhận vi khuẩn HP là một trong những nguyên nhân gây ung thư dạ dày. Ban đầu, vi khuẩn này gây ra tình trạng viêm niêm mạc dạ dày (viêm cấp tính, dần dần chuyển sang viêm mạn tính). Viêm dạ dày mạn tính kéo dài dẫn đến viêm teo niêm mạc dạ dày và dị sản ruột (tình trạng này gặp ở khoảng một nửa số trường hợp bị nhiễm vi khuẩn HP). Viêm teo là hiện tượng các tuyến của dạ dày được thay thế bằng các mô xơ (sẹo), còn dị sản ruột là hiện tượng lớp niêm mạc bình thường bị thay thế bằng biểu mô niêm mạc ruột. Chính dị sản ruột và viêm teo niêm mạc là yếu tố dẫn đến ung thư dạ dày. Mức độ viêm teo niêm mạc dạ dày và dị sản ruột phụ thuộc vào quá trình viêm (nhiều hay ít), điều này được quyết định bởi hai yếu tố: độc lực của vi khuẩn và sức đề kháng (khả năng đáp ứng miễn dịch) của người bệnh.
4. Khi nào cần điều trị vi khuẩn HP dạ dày?
Hiện nay, quan điểm về việc điều trị vi khuẩn HP ở các nước trên thế giới rất khác nhau:
Ở Nhật Bản, quốc gia có tỷ lệ nhiễm HP tương đối cao (khoảng 51% dân số) và tỷ lệ ung thư dạ dày cũng ở mức cao nên họ có chủ trương cứ người nào có vi khuẩn HP là cần phải điều trị.
Một số vùng của các nước thuộc khu vực bắc bán cầu như Greenland (Đan Mạch), Alaska (Mỹ), một vài địa phương của Nga và Canada. Những nơi này có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về vi khuẩn HP như: tỷ lệ nhiễm cao (hơn 60% dân số), lứa tuổi mắc sớm (từ 4 – 5 tuổi và đến năm 15 tuổi thì tăng rất nhanh). Mặc dù đó đều là những nước phát triển nhưng các chuyên gia y tế lại không có chủ trương diệt vi khuẩn HP cho tất cả những người nhiễm kể cả những người mắc chứng khó tiêu.
Triệu chứng và biến chứng khi nhiễm vi khuẩn HP
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, cần điều trị vi khuẩn HP trong những trường hợp sau:
• Người bị viêm loét dạ dày hoặc loét hành tá tràng (phần đầu của ruột non tiếp giáp với dạ dày).
• Những người mắc chứng khó tiêu: sau khi ăn thấy đầy bụng, ăn có cảm giác nhanh bị no, nóng rát và đau vùng thường vị.
• Người bị viêm teo niêm mạc dạ dày hoặc có khối u ở dạ dày.
• Người bị ung thư dạ dày đã được phẫu thuật cắt bỏ một phần.
• Người có các bệnh về máu như: thiếu máu do thiếu sắt hoặc xuất huyết giảm tiểu cầu chưa rõ nguyên nhân.
• Có người thân trong gia đình (bố, mẹ, anh/chị em ruột) bị ung thư dạ dày.
• Những người có nguy cơ bị ung thư dạ dày do làm việc trong môi trường khai thác khoáng sản (quặng, than).
Vi khuẩn HP có thể lây qua đường miệng – miệng khi hôn nhau hoặc tiếp xúc (với nước bọt hoặc dịch tiết tiêu hóa của người bệnh), dùng chung các vật dụng: bát, đũa, cốc, đồ dùng vệ sinh cá nhân: bàn chải đánh răng hoặc thói quen mớm đồ ăn cho trẻ.
Các chuyên gia cho rằng khi gia đình có người bị nhiễm vi khuẩn HP thì khả năng các thành viên khác bị nhiễm là tương đối cao.
Các dụng cụ nội soi dạ dày nếu không được tiệt trùng kỹ lưỡng, cũng có thể là nguồn lây nhiễm.
Vi khuẩn HP còn có thể lây nhiễm qua đường phân – miệng tức là người khỏe mạnh tiếp xúc với phân của người bệnh khi dùng chung nhà vệ sinh. Vì vậy, cần rửa tay kỹ bằng xà phòng trước khi ăn để phòng bệnh.
Các con đường lây nhiễm vi khuẩn HP
Khi được chẩn đoán nhiễm vi khuẩn HP, tốt nhất người dân nên đến các cơ sở chuyên khoa tiêu hóa để được bác sĩ tư vấn về việc điều trị. Một vấn đề nổi cộm hiện nay đối với vi khuẩn HP là sự kháng thuốc và sự tái nhiễm.
Tỉ lệ kháng kháng sinh ở nước ta đang ở mức rất cao, trong đó có cả vi khuẩn HP. Trước đây, chỉ cần các thuốc kháng sinh phổ thông như amocixillin kết hợp với clarithromycin hoặc metronidazole, thời gian điều trị trong 1 tuần thì hiệu quả diệt HP thường ở mức 90 – 95%. Tuy nhiên hiện nay, tỉ lệ kháng kháng sinh đã tăng đáng kể. Cụ thể, với amocixillin là 25%, clarithromycin là 34% (có nghiên cứu lên đến 85.5%) và metronidazole là 69% (có nghiên cứu lên đến 95%). Vì thế nên việc diệt vi khuẩn HP trở nên khó khăn, phức tạp hơn.
Một vấn đề khác đối với vi khuẩn HP là kể cả khi đã được điều trị thì khả năng tái phát và tái nhiễm vẫn xảy ra. Năm 2005, một nghiên cứu cho thấy khả năng tái xuất hiện của vi khuẩn HP là tương đối cao: có khoảng 23.5% số bệnh nhân tái xuất hiện vi khuẩn này sau 1 năm điều trị khỏi.
Tái phát vi khuẩn HP là tình trạng nhiễm loại vi khuẩn này, đã được điều trị và xét nghiệm không tìm thấy vi khuẩn HP trong dạ dày nhưng sau đó vi khuẩn lại xuất hiện trở lại. Tỷ lệ tái phát ở nước ta vào khoảng 13.8%.
Tái nhiễm là tình trạng đã điều trị khỏi hoàn toàn vi khuẩn HP nhưng một thời gian sau lại bị nhiễm mới loại vi khuẩn này. Tỷ lệ tái nhiễm khoảng 9.7%.
Vi khuẩn HP còn liên quan đến yếu tố vệ sinh cá nhân và môi trường, vì vậy việc giữ vệ sinh tốt cũng giúp giảm nguy cơ mắc bệnh. Để phòng bệnh, người dân nên ăn uống hợp vệ sinh (ăn chín, uống sôi), không nên ăn đồ sống hoặc đồ tái, trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh cần rửa tay hoặc sát khuẩn tay thật kỹ.